Friday, February 21, 2014

lời chứng TU SĨ PHẬT GIÁO chết xuống Địa Ngục và được Đúc Chúa Trời cho sống lại đễ làm chứng Chúa Jêsus Christ là CON ĐƯỜNG DUY NHẤT đến thiên đàng



lời chứng TU SĨ PHẬT GIÁO chết xuống Địa Ngục và được Đúc Chúa Trời cho sống lại đễ làm chứng Chúa Jêsus Christ là CON ĐƯỜNG DUY NHẤT đến thiên đàng


Niếu bạn không nhơn thì giờ và đọc hết trang này , bạn rát là hói hận sao này , sau khi chết niếu bạn không Tiếp nhận Chúa Cứu Thế Jesus Christ làm Chúa và làm Chủ đời sống mình thì linh hồn cũa bạn sẽ sa xuống địa ngục, trong lửa chẳng hề tắt
bị quăng vào lửa đời đời ,trong kinh thánh chép: ( Mác 9:43 , Ma-thi-ơ 18:8)

Muốn có sự sống vĩnh hằng và có sự tương giao mật thiết với Thượng Đế chúng ta phải tiếp nhận Chúa Giê-xu vào lòng. Thánh Kinh chép: “Thượng Đế đã ban sự sống đời đời cho chúng ta, và sự sống ấy ở trong con Ngài. Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống, ai không có con Thượng Đế thì không có sự sống.” (I Giăng 5:11-12).

Thiên đàng là quyết định của bạn, nhưng Hỏa ngục sẽ là số phận dành cho bạn, nếu bạn từ chối Thiên đàng. Không có một chỗ thứ ba cho linh hồn. Lời Chúa khẳng định về Hỏa ngục không có lối ra, đó là hình phạt đời đời cho những người từ chối Đấng Thượng Đế tối cao.

Giăng 3
16. Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.

Lời Đức Chúa Trời phán: “Hãy tìm kiếm Ðức Giê-hô-va đang khi mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần! Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng; Hãy trở lại cùng Ðức Giê-hô-va, Ngài sẽ thương xót cho, hãy đến cùng Ðức Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào.” (Ê-sai 55:6-7).

Làm thế nào để tôi thoát khỏi Hỏa ngục?

Lời Chúa dạy: “vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời” (Rô-ma 3:23).

Rô-ma 6
23. Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Ðức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Ðức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta.

Rô-ma 10
13. Vì ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu.

kêu cầu danh Chúa Jesus Christ

Khải-huyền 3
20. Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta.

“Vậy, các ngươi hãy ăn năn và trở lại, đặng cho tội lỗi mình được xóa đi.” (Công vụ 3:19).

Vậy nếu miệng ngươi xưng Ðức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Ðức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu.” (Rô-ma 10:9)

Nếu bạn muốn tiếp nhận Chúa Jesus vào linh hồn và đời sống bạn, mời bạn cầu nguyện theo những lời hướng dẫn sau đây với tấm lòng chân thành của bạn:

Lạy Chúa yêu dấu ở trên trời! Con cám ơn Ngài, vì Ngài yêu thương con. Con thờ phượng và ngợi khen Ngài, Đấng Tạo Hóa và là Chúa của con. Cảm tạ Chúa về sự hy sinh của Chúa Jesus trên thập tự giá, để con có được sự sống vĩnh cửu nơi Ngài. Con biết con đã phạm tội, và làm những việc không đẹp lòng Ngài. Bây giờ, con xin Ngài tha thứ tất cả tội lỗi này, và tẩy sạch đời sống con. Con cầu xin Chúa Jesus Christ bước vào đời sống con. Con xin dâng chính mình con và cuộc đời con cho Ngài. Xin dạy con đặt Chúa đầu tiên trong mọi suy nghĩ và mọi việc làm của con. Xin giúp con theo Ngài và vâng theo những Lời dạy của Ngài. Xin giúp con thắng hơn những cám dỗ, và bảo vệ con khỏi mưu kế của kẻ ác. Con cầu nguyện trong Danh Chúa Jesus, Amen!

("A-men" có nghĩa là: "muốn thật hết lòng như vậy")

Bạn hãy tìm đến một Hội Thánh Tin Lành, nơi Tín hữu tôn trọng uy quyền tuyệt đối của Kinh Thánh là Lời Chúa, để được giúp đỡ trong đời sống theo Chúa của bạn!

www.freecdtracts.com/documents/AthetPyanShinthawPaulu.docx

TU SĨ PHẬT GIÁO CHẾT,
ĐƯỢC SỐNG LẠI,
THAY ĐỔI CUỘC SỐNG
GIỚI THIỆU
Câu chuyện sau đây là bản dịch của lời chứng được ghi âm trên băng cassette về một người được thay đổi. Đây không phải là lời phỏng vấn hoặc tiểu sử nhưng chỉ là lời làm chứng từ chính miệng của anh ta. Có nhiều người phản ứng cách khác nhau khi nghe câu chuyện nầy. Một số người được cảm động, một số nghi ngờ, một số người khác chế giễu, trong khi một số khác đầy dẫy sự giận dữ, họ nói rằng những lời nầy là tiếng gầm thét của kẻ điên hoặc là sự lừa dối có chi tiết. Một số Cơ đốc nhân đã chống lại câu chuyện nầy chỉ vì những sự kiện lạ lùng mô tả ở trong đó không thích hợp với hình ảnh yếu ớt của họ về một Đức Chúa Trời toàn năng. Một số người nói rằng vị tu sĩ trong câu chuyện này chưa thực sự chết, nhưng bị hôn mê, và những gì anh ta thấy và nghe là phần của cơn sốt đẩy vào ảo tưởng. Dù bạn nghĩ như thế nào, thì sự kiện đơn giản còn lại ấy là những biến cố trong câu chuyện này đã biến đổi con người nầy tận gốc rễ, khiến cho cuộc đời của người nầy thay đổi một góc 180 độ sau những biến cố thuật lại dưới đây. Anh ta đã can đảm và không sợ hãi gì khi kể lại câu chuyện của đời mình dù phải trả giá rất cao, kể cả bị tù. Anh ta đã bị bà con, bạn hữu, đồng nghiệp khinh bỉ và đối diện với sự đe dọa giết chết nếu không đồng ý nhượng bộ sứ điệp của anh. Động cơ nào khiến người đàn ông nầy liều mình từ bỏ mọi sự? Dù chúng ta tin hay không, thì câu chuyện của anh cũng đáng cho chúng ta lắng nghe và xem xét. Ở thế giới hoài nghi Phương Tây, nhiều người đòi hỏi bằng cớ của những người như thế, bằng cớ có thể đứng vững trước tòa án. Không nghi ngờ gì, liệu chúng ta có thể bảo đảm chắc chắn rằng tất cả những điều nầy xảy ra không? Không, chúng ta không thể. Nhưng chúng tôi cảm thấy rằng đáng cho chúng ta nghe câu chuyện nầy bằng tiếng nói của anh ta để độc giả tự phán đoán.
NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA ĐỜI TÔI
Kính chào quí vị. Tôi tên là Athet Pyan Shinthaw Paulu. Tôi ở tại đất nước Miến Điện. Tôi hân hạnh được chia sẻ lời chứng của tôi về những gì xảy ra cho tôi, nhưng trước hết, tôi xin vắn tắt về quảng đời thơ ấu của tôi.
Tôi sinh năm 1958 ở làng Bogale, thuộc Bình Nguyên Irrawaddy của miền nam Miến Điện (trước kia gọi là Burma). Cha mẹ tôi là người rất sùng kính Phật giáo giống như hầu hết những người ở Miến Điện, đặt tên tôi là Thitpin (có nghĩa là “cây”). Cuộc sống tôi rất đơn giản tại nơi tôi lớn lên. Đến khi được 13 tuổi, tôi nghỉ học, và bắt đầu làm việc trên một thuyền đánh cá. Chúng tôi bắt được nhiều cá và đôi khi có tôm ở nhiều sông ngòi và suối ở vùng Irrawaddy. Khi được 16 tuổi, tôi là trưởng của chiếc thuyền đó. Vào lúc nầy, tôi sống ở vùng thượng lưu Mainmahlagyon Island (Mainmahlagyon có nghĩa là “Đảo phụ nữ xinh đẹp”), chỉ ở phía bắc của Bogale, nơi tôi được sinh ra. Vùng nầy khoảng 100 dặm về phía tây nam của Yangon (Rangoon) thủ đô của Miến Điện.
Một ngày nọ, khi tôi 17 tuổi, chúng tôi bắt được rất nhiều cá trong lưới. Vì cớ nhiều cá nên một con cá sấu khổng lồ tấn công chúng tôi. Nó bơi theo thuyền của chúng tôi và cố gắng tấn công. Chúng tôi rất hoảng kinh, vì vậy chúng tôi chèo thuyền nhanh về hướng bờ sông. Con cá sấu theo sau chúng tôi và dùng đuôi của nó đập nát thuyền. Mặc dầu không ai bị chết trong cảnh ngộ nầy, nhưng sự tấn công đã ảnh hưởng rất lớn trên đời sống tôi. Tôi không còn muốn đi bắt cá nữa. Chiếc thuyền nhỏ của chúng tôi bị chìm vì cá sấu tấn công. Tối đó chúng tôi về làng nhờ chiếc thuyền khác.
Không lâu sau đó, người chủ của cha tôi chuyển ông ta đến thành phố Yangon (Rangoon). Đến 18 tuổi, tôi được gởi vào một tu viện Phật giáo để làm tu sĩ tập sự. Hầu hết cha mẹ ở Miến Điện đều cố gắng gởi con trai mình vào một tu viện Phật giáo, ít ra một thời gian, vì họ xem đó là một vinh dự lớn khi có con trai phục vụ theo cách ấy. Chúng tôi đã giữ phong tục này hàng nhiều trăn năm nay.
MÔN ĐỆ NHIỆT THÀNH CỦA PHẬT GIÁO
Vào năm 1977, khi tôi được 19 tuổi 3 tháng, tôi trở thành một tu sĩ thực thụ. Vị sư trưởng tu viện của tôi cho tôi một pháp danh, đây là phong tục của nước tôi. Bây giờ tôi được gọi là U Nata Pannita Ashinthuriya. Khi trở thành tu sĩ, chúng tôi không còn dùng tên do cha mẹ đặt cho khi mới sanh. Tên của tu iện nơi tôi sống gọi là Mandalay Kyaikasan Kyaing. Tên của vị sư trưởng là U Zadila Kyar Ni Kan Sayadaw (U Zadila là tước hiệu của ông – như Hòa thượng). Ông từng là tu sĩ phật giáo nổi tiếng nhất ở tại Miến Điện lúc bấy giờ. Mọi người đều biết ông là ai. Ông được mọi người kính trọng và tôn ông là giáo sư vĩ đại. Tôi nói ông “từng” là vì năm 1983, thình lình ông qua đời vì bị tai nạn xe. Sự qua đời của ông làm mọi người sững sốt. Lúc ấy tôi đã làm tu sĩ được 6 năm, tôi cố sức để trở thành tu sĩ giỏi nhất và tuân theo mọi giới luật của Phật giáo. Đến một giai đoạn tôi đi vào nghĩa trang gần chỗ tôi sống và suy tư liên tục. Vài tu sĩ thật sự muốn biết những chân lý về đức Phật cũng làm giống như tôi làm. Một số người đi sâu vào rừng để họ sống một cuộc đời từ bỏ chính mình và nghèo khổ. Tôi tìm cách để từ bỏ những tư tưởng ích kỷ, và dục vọng, để trốn thoát khỏi bệnh tật và đau khổ và muốn phá vỡ vòng luân hồi của trần gian nầy. Tôi cố đạt cho được sự bình an trong tâm hồn và tự ý thức, thậm chí khi một con muỗi sà vào cắn, tôi cứ để nó hút máu mà không đập nó!
Trãi qua nhiều năm tôi phấn đấu để trở thành tu sĩ tốt nhất và không làm hại bất kỳ sinh vật nào. Tôi học tập những sự dạy dỗ thánh của Phật giáo như tổ tiên đã làm trước tôi. Cuộc đời làm tu sĩ của tôi cứ tiến lên cho đến một ngày tôi bị đau rất nặng. Tôi ở Mandalay vào thời điểm đó và được đưa đến bệnh viện để chữa trị. Bác sĩ đã làm một số xét nghiệm trên tôi và cho tôi biết là tôi bị sốt vàng và sốt rét cùng một lúc! Sau một tháng ở bệnh viện, sức khỏe của tôi tệ hại hơn. Các bác sĩ bảo rằng không còn cơ hội cho tôi được phục hồi và họ cho tôi xuất viện để về nhà chờ chết.
Đây là phần mô tả vắn tắt về quá khứ của tôi. Bây giờ tôi muốn kể cho quí vị nghe những điều đáng lưu ý xảy ra cho tôi sau thời điểm đó….
MỘT KHẢI TƯỢNG LÀM THAY ĐỔI CUỘC ĐỜI TÔI VĨNH VIỄN
Sau khi xuất viện, tôi trở lại tu viện, tại đấy các tu sĩ khác chăm sóc cho tôi. Tôi càng ngày càng yếu hơn và bị hôn mê. Về sau tôi được người ta cho biết rằng tôi đã chết ba ngày. Thân thể tôi bị thối và tim tôi đã ngừng đập. Người ta chuẩn bị liệm và đưa qua nghi lễ tẩy uế truyền thống của Phật giáo. Dù thân thể tôi bị hủy hoại, nhưn tôi nhớ rằng tâm trí và tâm linh của tôi lại rất nhạy bén. Tôi đang ở trong một trận bão rất lớn. Cơn gió rất mạnh san bằng toàn thể cảnh vật cho đến khi không còn một cây hoặc bất kỳ thứ gì còn lại, ngoài một khoảnh đất trống trơn. Tôi đi nhanh qua bình nguyên nầy một lúc. Chẳng còn ai cả, chỉ một mình tôi đi. Sau một lúc tôi băng qua một con sông. Bên kia bờ sông, tôi thấy một hồ lửa rất khủng khiếp, khủng khiếp lắm. trong Phật giáo, chúng tôi không có ý niệm về một nơi giống như vậy. Ban đầu tôi rối trí và không biết đó là địa ngục cho đến khi tôi nhìn thấy Yama, vua của địa ngục (Yama là tên đặt cho vua của địa ngục trong nhiều nền văn hóa Á châu). Mặt của vua này giống như mặt sư tử, nhưng chân của nó giống như chân của rắn. Nó có một số sừng. mặt nó dữ tợn và tôi rất sợ hãi. Run rẩy, tôi hỏi tên của nó. Nó trả lời, “Ta là vua của địa ngục, Kẻ hủy diệt”
HỒ LỬA RẤT KHỦNG KHIẾP
Vua của địa ngục bảo tôi nhìn vào hồ lửa. Tôi nhìn và thấy chiếc áo choàng màu của tu sĩ Phật giáo Miến Điện. Tôi nhìn kỹ hơn và thấy đầu trọc của một người đàn ông. Khi tôi nhìn vào mặt ông ta, tôi nhận ra đó là U Zadila Kyar Ni Kan Sayadaw (Vị tu sĩ nổi tiếng đã chết trong tai nạn xe hơi năm 1983). Tôi hỏi vua địa ngục vì sao người lãnh đạo trước kia của tôi lại bị giam trong hồ tra tấn nầy. Tôi nói, “Tại sao ông ta ở trong hồ lửa nầy? Ông ta là giáo sư lỗi lạc. Thậm chí ông ta đã có một cuộn băng gọi là “Bạn là con người hay một con chó?” giúp cho hàng ngàn người hiểu rằng, là người, họ có giá trị rất lớn so với súc vật. Vua của địa ngục trả lời, “Đúng, ông ta là một giáo sư lỗi lạc, nhưng ông ta không tin Jêsus Christ. Đó là lý do ông ta ở trong địa ngục”.
Rồi vua địa ngục bảo tôi nhìn vào một người khác ở trong hồ lửa. Tôi nhìn thấy một người tóc rất dài vắt ngang qua bên trái đầu của ông ta. Ông ta cũng mặc áo choàng dài. Tôi hỏi vua địa ngục, “Ông nầy là ai?” Nó trả lời, “Đây là người mà ngươi thờ kính: Gautama (Phật Thích Ca). Tôi kinh hoàng nhìn thấy Gautama ở địa ngục. Tôi cãi lại, “Gautama là người rất đạo đức, rất tốt, tại sao ông ta lại chịu khốn khổ ở hồ lửa?” Vua địa ngục trả lời, “Cho dù ông ta đạo đức đến đâu, nếu ông ta không tin nơi Đức Chúa Trời đời đời, thì ông ta vẫn ở nơi nầy”.
Sau đó tôi thấy một người khác, giống như mặc bộ đồ quân phục. Ông ta có một vết thương lớn ở ngực. Tôi hỏi, “Ông nầy là ai?”
Vua địa ngục bảo, “Đây là Aung San, lãnh tụ cách mạng của Miến Điện. Aung San ở đây vì ông ta ngược đãi và giết nhiều Cơ đốc nhân, nhưng chính là vì ông ta đã không tin nơi Jêsus Christ”. Ở Miến Điện, người ta thường có câu tục ngữ, “Người lính chẳng bao giờ chết, họ cứ sống mãi”. Vua địa ngục nói với tôi rằng những quân đoàn của địa ngục đã có câu tục ngữ, “Những người lính chẳng bao giờ chết, nhưng họ đi xuống địa ngục đến đời đời”.
Tôi nhìn xem thấy một người khác ở trong hồ lửa. Ông ta rất to lớn và mặc đồ chiến. Ông ta cũng cầm một thanh gươm và một cái khiên. Người nầy có một vết thương ở trên trán. Người nầy cao lớn hơn bất kỳ người bình thường nào mà tôi từng thấy. Chiều cao của ông ta bằng sáu lần chiều dài từ cùi chỏ của người nam đo ra chót ngón tay khi duỗi thẳng ra cộng với một gang tay. Vua địa ngục nói, “Người nầy tên là Gô-li-át. Hắn ta ở địa ngục vì hắn phỉ báng Đức Chúa Trời đời đời và tôi tớ Ngài là Đa-vít”. Tôi bối rối vì tôi không biết Gô-li-át và Đa-vít là ai cả. Vua địa ngục nói, “Gô-li-át được ghi lại trong Kinh thánh Cơ-đốc. Bây giờ ngươi không biết, nhưng khi ngươi trở thành Cơ đốc nhân, ngươi sẽ biết hắn là ai”.
Sau đó tôi được đưa đến một nơi tôi thấy cả người giàu và nghèo lo chuẩn bị bữa ăn tối. Tôi hỏi, “Ai nấu thức ăn cho những người nầy?” Vua địa ngục trả lời, “Người nghèo thì tự họ nấu ăn, còn người giàu thì nhờ người khác nấu cho họ”. Khi thức ăn được chuẩn bị xong, người giàu ngồi xuống ăn. Khi họ bắt đầu ăn thì khói mù mịt bay lên. Người giàu ăn lấy ăn để để làm dịu lương tâm của họ. Họ phải thở khó khăn lắm vì khói. Họ phải ăn nhanh vì họ sợ mất tiền. Tiền bạc là thần của họ.
Một vua khác của địa ngục đến gần tôi. Tôi cũng thấy một con vật có công tác cho than vào lửa bên dưới hồ lửa để làm cho nó nóng thêm. Con vật nầy hỏi tôi, “Mầy cũng muốn đi vào hồ lửa nầy phải không?” Tôi trả lời, “Không, tôi đến đây để quan sát thôi”. Vẻ mặt của con vật khều lửa nầy rất dữ tợn. Nó có mười cái sừng trên đầu, một cây giáo trên tay và bảy lưỡi dao bén nhọn từ đầu cây giáo. Con vật này nói với tôi, “Mầy nói đúng. Mầy đến đây chỉ để quan sát thôi. Ta không tìm thấy tên mầy ở đây”.
Nó nói, “Bây giờ ngươi trở về nơi trước khi ngươi đến đây”. Nó chỉ cho tôi về hướng đồng bằng hoang vu mà tôi đã đi qua trước khi tôi đến hồ lửa nầy”.
CON ĐƯỜNG QUYẾT ĐỊNH
Tôi đi bộ rất xa, cho đến khi chân tôi chảy máu. Tôi bị nóng và đau đớn dữ dội. Cuối cùng khi tôi đi bộ khoảng ba giờ, tôi đến một con đường rộng. Tôi đi trên đường rộng nầy một lúc cho đến một ngã ba. Một nhánh đi về phía trái, rất rộng. Một nhánh nhỏ hơn đi về phía bên phải. Ở chỗ ngã ba có một bảng hiệu nói rằng con đường bên trái dành cho những người không tin nơi Chúa Jêsus Christ. Con đường bên phải dành cho những người tin nơi Chúa Jêsus. Tôi muốn biết con đường rộng dẫn đến đâu, nên tôi bắt đầu đi. Có hai người đàn ông đi trước tôi 300 thước. Tôi cố gắng đi nhanh để bắt kịp họ, nhưng dù tôi rán sức đến đâu cũng không theo kịp, do đó tôi quay lại ngã ba. Tôi tiếp tục nhìn hai người đàn ông đó khi họ đi xa khỏi tôi. Lúc họ đến cuối con đường thì thình lình họ rơi xuống. Hai người đàn ông nầy hét lên khủng khiếp! Tôi cũng hét lên khi thấy những gì xảy ra cho họ! Tôi biết rằng con đường rộng chấm dứt trong sự nguy hiểm kinh khủng cho ai đi trên đó.
NHÌN LÊN THIÊN ĐÀNG
Tôi bước đi trên con đường của những người tin theo Chúa Jêsus. Sau khi đi khoảng một giờ thì mặt đường đổi thành vàng ròng. Nó trong suốt đến nỗi khi tôi nhìn xuống thì thấy mặt tôi rõ ràng. Sau đó tôi thấy một người đàn ông đứng trước mặt tôi. Ông ta mặc chiếc áo choàng trắng. Tôi cũng nghe người ta hát rất hay. Ồ, quá tuyệt vời và tinh khiết! Rất có ý nghĩa và hay hơn rất nhiều so với những buổi thờ phượng trong những nhà thờ ngày nay trên đất nầy. Người đàn ông mặc áo trắng bảo tôi cùng đi với ông. Tôi hỏi ông tên gì, nhưng ông ta không trả lời. Sau khi tôi hỏi tên ông đến sáu lần, thì ông ta trả lời, “Ta là người giữ chìa khóa của thiên đàng. Thiên đàng là nơi rất đẹp, rất tuyệt vời. Bây giờ ngươi không thể vào đây, nhưng nếu ngươi đi theo Jêsus Christ thì ngươi có thể vào sau khi cuộc sống trên đất của ngươi chấm dứt”. Tên của người đàn ông ấy là Phi-e-rơ.
Phi-e-rơ bảo tôi ngồi xuống và ông ta chỉ cho tôi thấy một chỗ ở phía bắc. Ông nói, “Nhìn về hướng bắc và nhìn thấy Đức Chúa Trời tạo dựng một người đàn ông. Đức Chúa Trời phán với một thiên sứ, “Chúng ta hãy dựng nên một người đàn ông”. Thiên sứ năn nỉ với Đức Chúa Trời và nói, “Xin Ngài đừng dựng nên người đàn ông. Người ấy sẽ làm điều sai trái và làm Ngài buồn lòng”. (Nghĩa đen theo tiếng Miến Điện là người ấy sẽ làm Ngài mất mặt). Nhưng dù sao Đức Chúa Trời vẫn tạo dựng một người đàn ông. Ngài đặt tên người ấy là “A-đam” (Ghi chú: Những người Phật giáo không tin nơi sự tạo dựng của thế giới hay của con người, vì vậy kinh nghiệm đó gây tác động có ý nghĩa trên tu sĩ nầy).
SAI TRỞ VỀ QUẢ ĐẤT VỚI TÊN MỚI
Sau đó Phi-e-rơ nói, “Bây giờ hãy đứng dậy và trở lại chỗ trước khi ngươi đến đây. Hãy nói với những người thờ phượng Phật Thích Ca và những người thờ lạy hình tượng. Nói với họ rằng họ phải đến địa ngục nếu họ không thay đổi. Những người xây dựng chùa và thần tượng cũng sẽ đi địa ngục. Những người cúng tiền cho các tu sĩ để lấy công quả cũng sẽ đi xuống địa ngục. Tất cả những người cầu nguyện với các tu sĩ và gọi họ bằng “Pra” (tước hiệu tôn kính đối với tu sĩ) sẽ xuống địa ngục. Tất cả những người cầu kinh và “ban sự sống” cho hình tượng sẽ xuống địa ngục. Tất cả những người không tin Jêsus Christ sẽ xuống địa ngục”. Phi-e-rơ bảo tôi quay về trái đất và làm chứng về những gì tôi đã thấy. Ông cũng nói, “Ngươi phải nói bằng tên mới của ngươi. Từ bây giờ trở đi, ngươi sẽ được gọi là Athet Pyan Shinthaw Paulu (Phao-lô trở lại cuộc sống).
Tôi không muốn quay lại quả đất. Tôi muốn đi thiên đàng. Các thiên sứ mở ra một cuốn sách. Trước hết họ tìm tên hồi nhỏ của tôi (Thitpin) trong sách, nhưng họ không thể tìm được. Rồi họ tìm tên mà tu viện đặt cho tôi khi làm tu sĩ Phật giáo (U Nata Pannita Ashinthuriya), nhưng họ cũng không thấy. Rồi Phi-e-rơ bảo, “Tên của nhưng chưa được viết vào đây, ngươi phải trở về trần gian và làm chứng về Chúa Jêsus cho những người theo Phật giáo”.
Tôi trở lại con đường bằng vàng. Một lần nữa tôi được nghe hát rất hay, loại nhạc mà tôi chưa được nghe trước đây. Phi-e-rơ cùng đi với tôi cho đến giờ tôi phải quay về quả đất. Ông ấy chỉ cho tôi một cái thang từ trời xuống bầu trời. Cái thang nầy không chạm đến quả đất, nhưng dừng lại ở giữa chừng bầu khí quyển. Trên cái thang nầy tôi thấy rất nhiều thiên sứ, một số đi lên trời, một số đi xuống. Họ rất bận rộn. Tôi hỏi Phi-e-rơ, “Họ là ai?” Phi-e-rơ trả lời, “Họ là những sứ giả của Đức Chúa Trời. Họ đang trình lên thiên đàng tên của những người đã tin nơi Jêsus Christ và tên của những người không tin Jêsus Christ. Sau đó Phi-e-rơ bảo tôi đến lúc tôi phải trở về.
CON MA! CON MA!
Điều kế tiếp mà tôi nhận ra là tiếng khóc. Tôi nghe mẹ tôi khóc lớn, “Con trai ơi, con ơi, sao con bỏ cha mẹ lại đây?” Tôi cũng nghe nhiều người khóc. Tôi nhận thấy mình đang nằm trong một chiếc quan tài. Tôi bắt đầu cử động. Cha mẹ tôi bắt đầu la lớn, “Nó sống rồi! Nó sống rồi!” Những người khác đứng xa hơn không tin cha mẹ tôi. Sau đó, tôi chống tay trên thành quan tài và ngồi thẳng dậy. Nhiều người sững sốt, kinh khiếp. Họ la lên, “Con ma! Con ma!” và chạy bán sống bán chết.
Những người còn lại chết điếng và run rẩy. Tôi nhận ra mình đang ngồi trên đống nước nhờn và thối, là chất nước trong thân thể chảy ra, chắc được ba tách rưỡi nước nhờn. Đó là loại nước từ bao tử và những bộ phận bên trong của tôi chảy ra khi tôi nằm trong quan tài. Đây là lý do người ta biết rằng tôi thực sự chết rồi. Bên trong quan tài có một loại giấy ni-lông dán chặt vào lớp gỗ. Lớp ni-lông nầy giữ cho nước thối của tử thi không chảy ra, vì rất nhiều người chết chảy ra nhiều nước giống như vậy.
Về sau tôi biết rằng chỉ vài phút sau là người ta đem xác tôi đi thiêu. Tại Miến Điện, người chết được đặt trong quan tài, họ đóng nắp hòm lại, rồi thiêu cả quan tài. Cha mẹ tôi được phép nhìn mặt tôi lần cuối trước khi đóng nắp quan tài, đó là lúc tôi được sống lại. Nếu không sống lại, thì sau đó vài phút, người ta sẽ đóng nắp quan tài và thi thể tôi sẽ bị thiêu.
Lập tức tôi bắt đầu giải thích những gì tôi đã thấy và nghe. Người ta rất kinh ngạc. Tôi đã nói với họ về những người tôi đã thấy trong hồ lửa, và bảo họ rằng chỉ có Cơ đốc nhân mới biết chân lý, rằng tổ phụ của họ và của chúng tôi đã bị lừa dối hàng ngàn năm nay. Tôi nói với họ rằng mọi điều chúng ta tin đều là giả dối cả. Người ta rất kinh ngạc vì họ biết tôi thuộc về loại tu sĩ nào và tôi đã nhiệt thành với sự dạy dỗ của Phật Thích Ca như thế nào.
Ở Miến Điện, khi một người chết, tên và tuổi được viết bên cạnh quan tài. Khi một tu sĩ chết, thì tên của thầy tu, tuổi và số năm phục vụ làm tu sĩ được viết ben cạnh quan tài. Tôi đã được người ta ghi rằng tôi chết, nhưng bây giờ quí vị có thể nhìn thấy tôi đang sống!
LỜI KẾT
Vì “Phao-lô Trở Lại Cuộc Sống” kinh nghiệm câu chuyện nói trên, nên anh cứ tiếp tục làm chứng về Chúa Jêsus Christ. Các mục sư Miến Điện nói với chúng tôi rằng anh đã dẫn đưa hàng trăm tu sĩ Phật giáo đến với Chúa Jêsus. Lời chứng của anh rõ ràng là không nhượng bộ. Vì thế, sứ điệp của anh đã làm xúc phạm nhiều người, là những người không chấp nhận Jêsus Christ là CON ĐƯỜNG DUY NHẤT đến thiên đàng. Dù bị chống đối dữ tợn, nhưng những kinh nghiệm của anh quá thật đối với anh, nên anh không hề lay chuyển. Sau nhiều năm là tu sĩ Phật giáo, một người nghiêm túc tuân theo sự dạy dỗ của Phật Thích Ca, bây giờ anh lập tức công bố phúc âm của Đức Chúa Trời sau khi anh được sống lại và khuyên những tu sĩ khác từ bỏ tất cả những hình tượng giả dối và hết lòng theo Đức Chúa Jêsus Christ. Trước thời gian anh bị bệnh và chết, không có biểu hiện nào cho thấy anh biết gì về Cơ-đốc giáo. Mọi việc anh học trong ba ngày nằm trong quan tài đã rất mới đối với anh.
Trong nổ lực đưa sứ điệp của anh đến càng nhiều càng tốt, La-xa-rơ hiện đại nầy bắt đầu phân phát băng video và băng cassette về câu chuyện của anh. Cảnh sát và nhà cầm quyền Phật giáo tại Miến Điện đã làm hết sức mình để thu lại những băng cassette nầy và tiêu hủy. Lời chứng mà quí vị đọc được ở đây đã được dịch từ một trong những cuộn băng đó. Chúng tôi được biết rằng hiện nay nếu công dân Miến Điện nào có những băng này thì rất nguy hiểm cho họ.
Lời chứng không sợ hãi của anh đã đưa anh vào tù ít nhất một lần, khi nhà cầm quyền không thể làm cho anh câm miệng. Khi anh được thả ra, anh tiếp tục làm chứng về những điều anh đã thấy và nghe. Hiện nay anh ở đâu, chúng tôi không được biết. Một nguồn thông tin của Miến Điện cho biết anh ta có thể bị tù hay bị giết rồi, trong khi một nguồn tin khác lại nói, anh đã được trả tự do và tiếp tục công việc anh được giao phó.
________________

Link dưới đây là Lời chứng Một Ni Cô Tìm Được Chân Lý trong Chúa cứu thế Jesus

http://www.tinlanhhyvong.com/Loi_Chung_Mot_Ni_Co_Tim_Thay_Chan_Ly.html

Link dưới đây là Lời chứng cũa Một Tu Sĩ Phật Giáo Làm Chứng ơn Phước Chúa

http://www.nguonhyvong.org/modules.php?name=News&op=viewst&sid=569



Một Tu Sĩ Phật Giáo Làm Chứng ơn Phước Chúa

Từ khi tôi còn bé tôi đã có những thắc mắc tại sao linh hồn người chết có thể về ăn đồ cúng. Tại sao khi còn sống con người bất lực, nhưng khi chết linh thiêng có thể về phù hộ hoặc gieo họa cho bà con thân quyến?

Những câu hỏi siêu hình thúc đẫy tôi vào chùa tu học. Trong chùa có có bàn thờ một vị Bồ Tát, có nét mặt dữ tợn, cái lưỡi của ông dài hơn lưỡi rắn. Tên ông là Tiêu Diện Ðại Sĩ. Theo giáo lý nhà chùa thì đây là vị Thần cai trị các linh hồn vất vưỡng (Cô hồn) đói rách không ai cúng kiến thức ăn. Mỗi buổi kinh chiều nhà chùa cúng một bát cháo đặt ngay trên bàn thờ ông Tiêu Diện và tụng bài kinh Thí Thực. Niềm tin nầy rất thích hợp với người bình dân Việt-Nam. Tôi đã học Giáo Lý Nhà Phật để tìm giải đáp, nhưng càng học càng thêm nhiều thắc mắc khó giải thích hơn. Ví dụ có chùa chuyên làm bùa Quang Minh và bùa Hải Hội để giải oan cho những linh hồn ''nghiệp nặng'' chết nhằm vào ''ngày xấu''. Ngày nay nhiều chùa bói toán, xin quẻ. Là tu sĩ, tôi phải học nhiều giới cấm. Càng nhiều giới cấm người ta dễ phạm giới, vì thế có một giới cấm cấp dưới tò mò tìm hiểu giới luật của cấp trên. Mỗi sáng ai quên đọc câu thần chú trước khi đặt chân xuống đất là mắc tội sát sinh vì đã giết chết côn trùng trong ngày đó. Hoặc quên đọc thần chú là mắc tội ăn thịt 8 vạn bốn ngàn con vi khuẩn trong nước. Cạo đầu mà quên đọc thần chú cũng có tội. Ở chùa ăn nhiều rau. Lắm lần tôi thấy sâu chết trong rau muống luộc. Luộc những nồi rau to tướng như thế là giết rất nhiều sinh vật, thế nhưng không ai học câu thần chú luộc rau cả. Ngày xưa Ðức Phật cấm nam tu sĩ đứng tiểu tiện, nhưng sau đó dân chúng tưởng rằng tất cả đệ tử của Phật là phụ nữ. Ðức Phật phải hủy giới cấm ấy. Vì giới luật nhà tu quá chi li, nhưng không ai giữ được trọn vẹn giới luật nào cả. Chẳng ai muốn tiết lộ sự phạm giới của mình. Ðáng tiếc Ðạo Phật không nhìn nhận một cách minh bạch về vấn đề tội lỗi. Ðể phá chấp, người tu sĩ cấp cao học về ý nghĩa của sự phi giới và cao hơn nữa là vô phi giới.

Mỗi khi ăn cơm người tu hành đọc ba câu thề nguyện mà không ai tin mình có thể làm được. Thậm chí người ta đọc quen đến nỗi không cần một ý niệm tha thiết chân thành.

Một là từ bỏ việc ác (nguyện đọan nhất thiết ác)

Hai là làm trọn tất cả việc lành (nguyện tu nhất thiết thiện).

Ba là hóa độ chúng sinh (thể độ nhất thiết chúng sinh).

Khi học đến giáo lý cao siêu, tôi được dạy rằng không có tội lỗi, không ai tha tội cho ai, không có địa ngục, không có niết bàn, không ai dựng nên vũ trụ vạn vật màchỉ do tâm con người tạo ra. Giáo lý nhà Phật không tin có Ðấng Tạo Hóa, không tin nguyên nhân khởi đầu mà chỉ tin vào ly nhân duyên điệp trùng tiếp nối khiến vạn vật lưu chuyển như là đang hiện hữu. Vạn vật vốn là vô thủy vô chung, không có một cái gì vĩnh cửu (vô thường). Tâm con người chấp vào đâu thì có vào đó, chứ thật ra chẳng có cái gì hiện hữu thật sự. Ngay cả tôi đây không phải là tôi. Phần đông tín đồ Phật Giáo không hiểu giáo lý của Phật mà chỉ nghe theo các vị tu sĩ.

Ðạo Phật cho rằng đời là bể khổ. Có tám nguyên nhân chính gây ra đau khổ: 1)Sinh khổ. 2) Lão khổ. 3) Bịnh khổ. 4)Tử khổ. 5)Thương yêu mà không được gần nhau là khổ (ái biệt ly khổ). 6)Ghét nhau mà phải gần nhau là khổ (oán tăng hội khổ). 7)Ước muốn không thành là khổ (cầu bất đắc khổ). 8) Thân thể và tâm hồn mất thăng bằng là khổ (ngũ ấm thạnh khổ). Giáo lý quan trọng đầu tiên của đạo Phật là sự đau khổ. Muốn diệt đau khổ thì phải diệt sanh sản (diệt dục), diệt già nua, (diệt lão), diệt bịnh tật, diệt sự chết. Nhưng chưa đủ, còn phải diệt thương yêu (ái nghiệp) diệt ham muốn (tham), diệt giận hờn (sân si), muốn diệt khổ tuyệt đối thì phải diệt luôn cả ý muốn thành Phật (muốn thành Phật là tham!) Ðạo Phật tin vào luật báo quả thiện ác công minh, cũng không giải thích luật nhân quả công minh ấy từ đâu mà ra.

Tôi cần mẫn học từng bậc, đến khi tôi tốt nghiệp trường đào tạo tăng tài Phật Học Viện Nha Trang và Ðại Học Vạn Hạnh, tôi tự cảm thấy mình đi tu như thế vẫn không tiêu diệt hết tội lỗi trong tôi. Chưa kịp tiêu diệt tội lỗi cũ tội mới ló mặt ra trong tôi. Nếu có địa ngục tôi phải vào trước nhất. Một ông thầy tu phải biết che dấu tội lỗi để được các đệ tử thờ lạy khi mình còn sống. Người tu hành khi đã lên tới bậc Ðại Ðức thì khó hoàn tục vì được hưởng sự kính trọng quá cao và hưởng nhiều ưu đãi quá dễ.

Tự xét lấy mình, tôi đã từng thất vọng trong con đường tu. Ðã có khi tôi cần tìm một cái chết tự thiêu để giải quyết ngõ bí trong tâm hồn mình. Sau khi đọc hai quyễn sách của nhà văn Hermann Hesse Nasizund Goldmund và Siddhata, tôi liều lĩnh cởi bỏ chiếc áo thầy tu để ra đời tìm hiểu những ý nghĩa mà tôi thắc mắc. Nhưng sau 15 năm quen sống trong chiếc áo tu hành, tôi trở thành một thanh niên khờ khạo, vụng về không thăng bằng và thất bại. Năm 1973, sau khi thôi tu chừng một năm, tôi cưới vợ, nhưng gia đình tôi đổ vỡ rất sớm. Tôi trở lại tu theo pháp môn thiền định. Pháp môn nầy đã giúp tôi có bản lĩnh để nhìn biết một số phản ứng nội tâm khi thân thể mình ngồi tỉnh lặng. Nhờ 2 năm tu thiền trước 30-4-1975, tôi đã tiếp tục ngồi thiền rất chăm chỉ trong nhà tù cộng sản. Pháp môn thiền định đã giúp tôi gặp Phật, gặp Chúa, gặp ông Gandi, và gặp vô số loài vật cũng như bà con thân thuộc của mình trong quá khứ mù mờ. Tôi nghĩ, họ là kiếp trước của tôi. Phái thiền Pháp Hoa Hội Thượng gọi đó là mật pháp. Nhiều bạn thiền của tôi cũng đạt đến kết quả như thế. Cũng có người cho đó là hư tưởng trong tạng thức của mình. Càng ngồi thiền siêng năng, tôi càng muốn rời bỏ thế gian để tìm hiểu thế giới sau khi chết. Ý nghĩ tự tử càng dễ xuất hiện trong tôi. Nhưng trên thực tế, lắm khi tôi sống buông thả tệ hại!

Sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản, tôi lập lại gia đình, nhưng không ngờ gặp nhiều điều ngang trái khác! Thế là gia đình tôi lại đổ vỡ một lần nữa (Xin quý vị đọc hai quyển sách: Ai chết cho ai? Và Từ Áo Cà Sa Ðến Thập Tự Giá để thấy rõ những chi tiết nầy hơn).

Tôi đã đi tu, đã tình nguyện tự thiêu, đã ra đời lấy vợ, tu thiền và thất bại. Một cuộc đời rắc rối đầy rủi ro như thế chẳng có gì đáng sống nếu nhìn theo con mắt phàm tục. Nhưng trong hoàn cảnh bi đát ấy, tôi đã gặp được nhà thơ Bùi Giáng khuyên đọc Kinh Thánh. Lúc đầu tôi không có thiện cảm với Kinh Thánh. Nhưng lạ thay, càng đọc Kinh Thánh, tôi càng thấy lời dạy của Chúa là rõ ràng và thực tế hơn giáo lý Ðạo Phật. Kinh Thánh nói về sự sáng tạo vũ trụ và Ðấng Sáng Tạo. Trong khi đạo Phật dạy rằng không ai dựng nên vũ trụ mênh mông vô lượng nầy cả mà chỉ do tâm con người chấp có nên mới có. Kinh Thánh dạy rằng Chúa là tình yêu trong khi đạo Phật dạy rằng yêu là một sự cảm thọ, là ái nghiệp. Chúa dạy về tội lỗi, nguồn gốc của tội lỗi, quyền năng tha tội và cách giải quyết vấn đề tội lỗi tận gốc để chiến thắng điều ác. Nhưng đạo Phật dạy rằng tội bổn tánh không (tội lỗi vốn là không), không ai tha tội cho ai, con người tự mình thắp đuốc lên mà đi. Chúa dạy phải hiếu kính cha mẹ khi họ còn sống với mình, còn đạo Phật dạy cắt ái từ sở thân (lìa bỏ tình thương cha mẹ) như Ðức Thích ca đã từ bỏ cha mẹ, vợ con, nhưng lại thờ cúng cha mẹ sau khi họ đã qua đời. Chúa dạy chúng ta lấy thân thể mình để làm đền thờ Ngài, nhưng Phật Giáo dạy sự thờ phượng bằng bàn thờ, đá, xi măng. Chúa dạy con người dâng lời cầu nguyện để tương giao với Chúa, nhưng Phật Giáo dạy dâng nhang đèn, trầm hương lễ vật lên hình tượng để bày tỏ lòng thành. Chúa mặc khải ơn cứu rổi để giải phóng con người ra khỏi bản tính tội lỗi trước, rồi sẽ học làm điều lành sau; nhưng Phật Giáo dạy rằng con người phải giữ giới cấm để tự làm cho mình trở nên toàn thiện không cần ơn thiên thượng. Trên thực tế con người dễ làm điều ác khó làm điều lành. Như Sứ Ðồ Phao lô đã từng kinh nghiệm và nói rằng:'' Vả, chúng ta biết luật pháp là thiêng liêng; nhưng tôi là tánh xác thịt đã bị bán cho tội lỗi. Vì tôi không hiểu điều mình làm: tôi chẳng làm điều mình muốn, nhưng làm điều mình ghét. Song nếu tôi làm điều mình chẳng muốn, thì bởi đó nhận biết luật pháp là tốt lành. Bấy giờ chẳng phải tôi làm điều đó nữa, nhưng ấy là tội lỗi ở trong tôi. Vả, tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn; vì tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn. Ví bằng tôi làm điều mình không muốn, ấy chẳng phải là tôi làm điều đó nữa, nhưng là tội lỗi ở trong tôi vậy. Vậy tôi thấy có luật nầy trong tôi: khi tôi muốn làm điều lành, thì điều dữ dính dấp theo tôi. ...Khốn nạn cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi thân thể hay chết nầy? Cảm tạ Ðức Chúa Trời, nhờ “Ðức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta!'' (Rô ma 7:13-22,24-25).

Có những tu sĩ thực tâm tu niệm, họ từng cấm khẩu hàng tháng trời, cũng có vị tự nhập thất giam mình hàng tháng trong phòng kín để tu thiền hoặc tụng kinh. Nhưng bản chất tội lỗi trong con nguời không thể xóa sạch bằng hành vi hãm mình khổ hạnh. Lắm khi vì hãm mình khổ hạnh, người tu sĩ vấp phải những tội lỗi ''kỳ cục'' hơn người ngoài. Trong giới tu sĩ Phật Giáo có nhiều người tốt, nhưng người tốt chưa hẳn là người chiến thắng tội lỗi của mình.


Khi đọc Kinh Thánh tôi thấy lời Chúa dạy rõ ràng và đơn giản. Nếu mình thật lòng thực hành là có thể thấy kết quả đúng hay sai. Lúc đầu tôi chỉ làm thử; nếu đúng, tôi tin. Nếu sai, tôi bỏ Kinh Thánh. Sau khi tôi đã thử cầu nguyện âm thầm một mình theo lời dạy của Chúa trong sách Giăng 13:13-14 : ''Các ngươi gọi ta bằng Thầy bằng Chúa; các ngươi nói phải, vì ta thật vậy. Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chơn cho các ngươi, thì các ngươi cũng nên rửa chơn lẫn cho nhau.'' Chúa đã ban cho tôi những phép lạ thật kỳ diệu và thật là cụ thể, bước đầu tiên tôi không dám tin lắm, nhưng nhiều lần cầu nguyện có kết quả, tôi phải tin (xin xem thêm 2 quyển sách nói trên).

Ngày nay tôi sống trong Ðức Tin của Chúa, sự cầu nguyện và kết quả của sự cầu nguyện chẳng khác gì mình thụ hưởng thức ăn điều độ và hít thở khí trời trong lành ắt là phải có sức khỏe tốt cho mình mà thôi. Sau khi trở về trong Chúa, tôi được thay đổi bản tánh tội lỗi để được mặc vào bản tánh mới tự do, nhẹ nhàng, khoan khoái thật là tuyệt vời. Chúa cho tôi đắc thắng tội lỗi mà không kiêu ngạo và Chúa cũng cho tôi thấy cái vực thẳm giữa sự thánh khiết và tội lỗi là rất là mỏng manh, nhưng hai thế giới cách xa nhau lắm. Mỗi ngày sống trong Chúa quả thật là quý báu. Dù bị thế gian bắt bớ, tôi vẫn là người hạnh phúc và yêu quý mọi người, không thất vọng, không nghi ngờ, tôi vui thỏa từng giờ, từng ngày. Tôi tiếp sống với Lời Chúa và nhận được những kết quả vô cùng lớn lao. Khi cầu nguyện tâm hồn tôi bình tịnh, tỉnh táo hơn ngồi thiền nhiều lắm. Bản tánh nhơn từ thánh khiết của Chúa được bồi đáp thêm trong con người mới của tôi mỗi ngày rất cụ thể. Ðây là những kết quả quý báu để làm bằng chứng về nước thiên đàng mai sau như Lời Chúa hứa.

Ðối chiếu Phật Học và Thánh Kinh, nhất là kinh nghiệm tu hành theo đạo Phật, với kết quả kỳ diệu trong Ðức Tin Chúa ban cho tôi, tôi nhận thấy rằng thái tử Tất Ðạt Ða là một người thiết tha tìm con đường giải thoát sau khi nhìn thấy cuộc đời toàn là đau khổ. Với bản tánh của một người Ấn Ðộ, Thái tử đã suy nghiệm sâu xa về sự huân tập đức tánh xấu trong con người, nhưng thái tử chưa thấu đạt nguyên nhân của sự huân tập ấy là từ tội lỗi của con người như Kinh Thánh đã nói rõ. Vì thế thái tử cho đó là nghiệp lực thay vì tội lỗi. Tiếc thay thời đó Kinh Thánh Cựu Ước chưa được truyền qua Ấn Ðộ mặc dầu thái tử đã học nhiều tôn giáo khác nhau. Là một người thông minh vượt bực, lại có lương tâm nhạy bén, thái tử Tất Ðạt Ða không thỏa mãn với những luồng tư tưởng và tôn giáo nặng thần bí theo văn hóa Ấn Ðộ. Sáu năm đầu sau khi từ bỏ hoàng cung để quyết chí tu học, thái tử đã thất bại với pháp môn khổ hạnh đầu đà. Rốt cuộc thái tử Tất Ðạt Ða cương quyết ngồi thiền bên bờ sông Niliên. Ngài thề rằng:''Nếu ta không tìm ra chân lý, thà chết không đứng dậy khỏi nơi nầy.''Khi ngồi thiền, thái tử đã thấy những hiện tượng nội tại như ngày nay nhiều người ngồi thiền cũng đã thấy. Từ đó Ngài nghĩ rằng mình đã thành Phật. (Ngày nay một số người ngồi thiền cũng tự xưng mình đã thành Phật). Giáo Lý của Ngài bị các thế hệ đến sau thêm thắt quá nhiều khiến thêm mâu thuẩn. Ví dụ Phật Giáo Việt Nam có quá nhiều điều không bà con với Phật Giáo Ấn Ðộ. Các Bộ kinh của Phật chỉ được truyền khẩu qua nhiều thế kỷ trước khi được ghi lại bằng trí nhớ của môn đệ. Ðó là lý do khiến kinh Phật bị thất bản và bị thêm thắt quá nhiều.


Sau hơn 20 năm theo Chúa, mọi thắc mắc của tôi đã được Kinh Thánh giải đáp cả ba mặt: Thân thể, tâm trí, và tâm linh. Tôi đã nhận được nhiều phép lạ lớn lao. Bản thân tôi được Ngài chữa lành bịnh đau bao tử, bịnh trầm uất. Con trai tôi đã bị sốt xuất huyết tắt thở, được Chúa chữa lành khi tôi đang cầu nguyện. Những thói hư tật xấu của tôi được loại bỏ để được thay vào bằng những đức tính mới mẽ nhân từ thánh khiết từ Ðức Chúa Trời mà tôi không cần phải khổ công tu luyện như trước đây. Giải đáp lớn nhất đối với tôi là sự hiện diện của Chúa Thánh Linh trong con người vốn tầm thường yếu đuối của tôi. Chúa đã cho tôi thấy nhiều giấc mơ tuyệt diệu nhưng riêng tư và thực tế đến nỗi khó tả cho ai biết. Chúa đã cho tôi kinh ngiệm sống để biết Kinh Thánh là Lời Hằng Sống trong năng quyền của Ðức Thánh Linh chứ không phải là lý thuyết suông. Ðể mạc khải ơn tha thứ, trước hết Ngài đã tha tội cho tôi. Ðể mạc khải tình yêu thiêng liêng, trước hết Ngài đã yêu tôi và gánh chịu tội lỗi cho tôi trên thập tự giá. Tình yêu của Chúa là một bản tánh thực tế đầy hiệu năng chứ không là một sự diễn tả bằng lời nói và chữ viết.

Kinh Thánh nói: ''Tiền công tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Ðức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta''(Rôma 6:23). Chúa dạy rằng tội lỗi di truyền trong dòng dõi loài người sau khi tổ tiên của chúng ta phạm tội. Chúng ta có hể tu và sữa cái phong cách bề ngoài cho tốt đẹp, nhưng bản tính tội lỗi bên trong thì không thể nào tự sữa chữa được. Vì thế Ðức Chúa Trời ban Con Một của Ngài đến thế gian để gánh cái ách tội lỗi cho chúng ta. Ðiều đáng tiếc còn nhiều người đang khước từ ơn cứu rỗi của Chúa. Chúa dạy tội lỗi của loài người bắt đầu từ thái độ khước từ Ðấng tạo dựng nên mình. Nghĩa là không vâng lời Ngài và tiếp tục sống trong lầm lạc với những ý tưởng hư không và lòng ngu dốt đầy tối tăm. Ví dụ nguồn gốc của tội bất hiếu là từ bỏ cha mẹ. Khi một người con đã bất hiếu với cha mẹ, nay muốn trả hiếu, thì trước tiên là trở về xin lỗi cha mẹ, sau đó mới bắt đầu báo hiếu theo ý muốn của cha mẹ. Hành động trở về xin lỗi cha mẹ là một hành động khởi đầu của sự hiếu thảo của đứa con. Cũng thế nếu chúng ta muốn giải quyết nguồn gốc tội lỗi thì phải quay về với Ðấng dựng nên chúng ta. Ngài có quyền xét đóan chúng ta và cũng có quyền tha thứ cho chúng ta. Ngài là Ðức Chúa Trời. Ngài tạo dựng vũ trụ và cả chúng ta. Ngài ban cho chúng ta Ảnh Tượng của Ngài, nhưng chúng ta phạm tội nên đã đánh mất Ảnh Tượng thiêng liêng của Ngài. Kinh Thánh nói: ''Vì mọi người đều đã phạm tội, nên đã thiếu mất sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời'' (Rôma 3:23).

Ðức Chúa Trời yêu con người dù con người đã phạm tội. Nhưng Ðức Chúa Trời không chấp nhận tội lỗi, nên Ngài đã lập kế hoạch giải cứu con người ra khỏi tội lỗi. Giải pháp của Ngài có hai phần chính. Tha thứ tất cả những vi phạm đã qua và dẫn dắt chúng ta vào sự sống mới để đắc thắng tội lỗi. Tất cả giải pháp của Ngài đều được đặt trong Con Một của Ngài là Chúa Cứu Thế Jesus Christ. Chúa Jesus Christ xác nhận rằng: ''Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời.'' (Giăng 3:16). Ðức Chúa Jesus Christ đã hiện đến thế gian suốt hơn 2000 năm qua. Ngài đã chết trên thập tự giá để sự chết cứu chuộc của Ngài là nơi mà chúng ta đem tội lỗi mình đến để đặt vào bằng tấm lòng ăn năn và tin cậy. Ai tin vào Ơn Cứu Chuộc của Ngài thì tội lỗi của người ấy bị đóng đinh chết với Ngài trên thập tự giá. Nhưng Ngài là Ðấng đến từ Ðức Chúa Trời nên Ðức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại. Quyền năng sống lại của Ngài đem đến cho kẻ tin Ngài sức sống phục sinh mới mẽ. Nhờ sức sống phục sinh mới mẽ nầy, con người chúng ta nhận biết Ảnh Tượng của Ðức Chúa Cha trong chúng ta vốn đã bị tội lỗi ngăn cách. Ảnh Tượng của Ngài được tái dựng trong chúng ta để chúng ta tái sỡ hữu địa vị làm con cái của Ðức Chúa Trời.

Nếu chúng ta không trở về với Chúa, nghĩa là chúng ta để tội lỗi cai trị chúng ta và tội lỗi tiếp tục ngăn cách tình Cha Con của Ðức Chúa Trời và chúng ta. Nếu khước từ ơn tha tội của Chúa, chúng ta chắc chắn sẽ vào địa ngục sau khi chết phần xác. Ví dụ một đứa con từ bỏ cha mẹ dù nó ăn chay trọn đời vẫn cứ mang tội bất hiếu. Một người từ chối Ðấng dựng nên mình, dù có tự đặt ra cho mình bao nhiêu giới tu vẫn là một người có tội với Trời. Trước hết phải quay lòng về với Chúa. Sau đó mới nói tới chữ tu theo sự dắt dẫn của Ngài.

Kính thưa Quý Vị,


Khả năng con người có giới hạn, đặc biệt là khả năng làm điều lành của con người thì quá ít ỏi rất chủ quan. Nếu chúng ta chỉ học theo ý tưởng của loài người để làm lành thì vô tình chúng ta vẫn làm những điều ác mà mình không biết hết. Có những điều lành chúng ta làm xong, nhưng cuối cùng biết ra đó là điều ác. Vậy điều lành đúng nhất là điều lành trong Ðức Chúa Trời là Ðấng Tạo Dựng ra vũ trụ và loài người. Các Vĩ Nhân như Khổng Tử, Lão Tử, Ðức Thích Ca đều là người như chúng ta, vì thế, những tư tưởng và đạo lý của họ vẫn có giới hạn nhất định; điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Kinh Thánh ghi rằng: Ý tưởng của Ðức Chúa Trời là vô cùng cao siêu không giống như ý tưởng của loài người đâu. Và chỉ một mình Ngài là Ðức Chúa Trời, là Ðấng dựng nên tất cả, là Ðấng tha tội cho ai ăn năn, là Ðấng xét đoán bất cứ ai cứng lòng và vô tín. Dù chúng ta chấp có hay chấp không. Chúa cũng đã dựng nên tất cả rồi.


Hơn 20 năm trở về trong Chúa, tôi được Ngài giải đáp tất cả những thắc mắc nội tâm, được Ngài tái sinh thành một con người mới trong tâm linh, được sống hạnh phúc thỏa lòng trong tình yêu siêu thoát của Ngài. Tôi kinh nghiệm được quyền năng và sức sống phục sinh của Ðức Chúa Jesus Christ. Và tôi tin rằng bất cứ ai quay lòng về với Ðức Chúa Jesus Christ đều được làm con Ðức Chúa Trời, được tái lập lại Tình Cha Con vĩnh cữu với Ðức Chúa Trời, được nếm trải tình yêu thương thiêng liêng của Ngài và được sống hạnh phúc thỏa lòng. Kinh nghiệm sống hạnh phúc và đắc thắng tội lỗi là vô cùng tuyệt vời. Mặc dù hơn 20 năm qua bị thử thách, bị bắt bớ, bị hiểu lầm trong xã hội Việt Nam, nhưng tôi vẫn là một người hạnh phúc, không thất vọng, không óan than như ngày trước. Những thất bại, những thiệt thòi của tôi ngày trước đều được Chúa ban lại những thành công thiêng liêng đầy hạnh phúc hôm nay. Khi ở trong Chúa, cuộc đời chúng ta thật là đáng quý, đáng được hưởng những phuớc hạnh trần gian và phước hạnh thiêng liêng. Ðạo Phật nói đời là bể khổ. Giáo lý nầy chỉ đúng trên mặt tiêu cực của những người không tiếp Nhận Ðức Tin Con Ðức Chúa Trời trong Ðức Chúa Jesus Christ mà thôi. Thật ra đời còn nhiều điều đáng hưởng, vì thế ai cũng thích sống lâu.

Có thể một vài anh chị em trong hàng ngũ Phật Giáo cực đoan cảm thấy khó chịu khi đọc bài làm chứng nầy. Nhưng đó là do bản tính con người bình thường vừa tốt vừa xấu, vừa đúng vừa sai trong mỗi chúng ta. Tội lỗi rất tinh vi, nó khiến chúng ta ưa phân rẽ, ưa hận thù vì những khác biệt về tôn giáo, văn hóa, dân tộc... Mọi tôn giáo, văn hóa và dân tộc giữa thế gian nầy đều tạm bợ. Vì thế gian là cỏi tạm. Thế gian có quá nhiều tín ngưỡng. Tín ngưỡng nầy thờ khỉ, tín ngưỡng kia thờ bò, tín ngưỡng nọ thờ chuột, tín ngưỡng ấy thờ hình tượng, lại có tín ngưỡng thờ vĩ nhân, thờ bình vôi, thờ ông táo, thờ cây đa...nhưng thảy đều thờ những tạo vật hữu hạn. Kinh Thánh dạy chúng ta phải hết lòng, hết ý thờ phượng Ðức Chúa Trời là Ðấng dựng nên chúng ta. Ðức Chúa Jesus Christ đến từ Ðức Chúa Trời để mạc khải Ðức Chúa Trời chochúng ta. Tôi thành tâm tha thiết kêu gọi anh chị em từ mọi tôn giáo, văn hoá và dân tộc nên mạnh dạn trở về trong Ðức Chúa Jesus Christ để nhận ơn tha tội, để được tái sinh, để được sự sống đời đời và được học theo bản tính nhân lành của Cha Thiên Thượng. Bất cứ ngày nào còn sống, tôi muốn nói lên chân lý nầy và bất cứ lúc nào lìa khỏi xác thân để về với Chúa là tôi được hưởng nước trời vinh hiển đời dời.

Gặp Chúa là vô cùng quan trọng, không ai có thể ngậm miệng, không ai nỡ mặc nhiên chấp nhận những ý kiến chung chung cho rằng ''đạo nào cũng tốt, đạo nào cũng dạy làm lành lánh dữ''. Thế gian có nhiều tôn giáo mê tín sai lầm, cũng có tôn giáo dạy điều sai lạc; nếu không dứt khoát trở về trong Chúa, con người chúng ta không thể giải quyết được vấn đề tội lỗi của mình và chỉ tiếp tục sống trong mù mờ tăm tối cho đến khi linh hồn hư mất trong tối tăm!

Kính mong anh chị em sớm trở về trong Ðức Chúa Jesus Christ để được hưởng tiên vị thiên đàng ngay hôm nay.


Muốn Thật Hết Lòng,
Nguyễn Huệ Nhật

Lời Mời:

Sau khi đọc bài chứng nầy, nếu Quí vị quyết định tin nhận Chúa và tôn thờ Ngài, xin Quí vị hướng lòng về Chúa và nói rằng: ''Lạy Chúa, bấy lâu nay con chưa biết Ngài nên chưa tin nhận Ngài. Bây giờ, con bằng lòng tôn thờ Chúa. Xin Chúa tiếp nhận con vào đại gia đình của Chúa. Trong Danh Ðức Chúa Jesus Christ. Amen''


www.nguonhyvong.org (Theo Nguyễn Huệ Nhật) 

No comments:

Post a Comment